A14-Dám học-Dám chơi-Dám...
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 


Rechercher Advanced Search


Dong Bang Shin Ki

Go down

Dong Bang Shin Ki Empty Dong Bang Shin Ki

Bài gửi  Admin 21/5/2010, 18:20

TVXQ (còn TVXQ! hay TVfXQ) viết tắt của Tong Vfang Xien Qi (東方神起; Hán-Việt: Đông phương thần khởi), là một nhóm nhạc Hàn Quốc, được thành lập ngày 24 tháng 12 năm 2003 bởi SM Entertainment. Tại Hàn Quốc nhóm còn được biết đến với tên Dong Bang Shin Gi (hay Dong Bang Shin Ki), viết tắt DBSG (hoặc DBSK). (동방신기). Họ đã được giới thiệu tại Nhật Bản dưới tên Tohoshinki (東方神起) vào năm 2005, với công ty chủ quản là Rhythm Zone (công ty con của Avex). Tên phiên âm Hán-Việt của họ là Đông phương thần khởi, nghĩa là "Những vị thần đến từ phương Đông".
Dong Bang Shin Ki 722403 Dong Bang Shin Ki 982539 Dong Bang Shin Ki 722403 Dong Bang Shin Ki 982539 Dong Bang Shin Ki 722403 Dong Bang Shin Ki 982539 Dong Bang Shin Ki 722403 Dong Bang Shin Ki 982539 Dong Bang Shin Ki 722403 Dong Bang Shin Ki 982539
Từ khi ra đời cho đến nay, TVXQ đã trở thành một trong những ban nhạc nổi tiếng nhất tại các quốc gia Châu Á, và là một trong những ban nhạc điển hình của dòng K-pop hiện nay. TVXQ đã phát hành các đĩa đơn và album tại nhiều quốc gia và lãnh thổ trên toàn châu Á. Năm 2008, với đĩa đơn tiếng Nhật thứ 16, "Purple Line", lần đầu tiên chiếm ngôi vị quán quân trên bảng xếp hạng Oricon, TVXQ trở thành nghệ sĩ châu Á thứ 5 (không phải người Nhật) và là nhóm nhạc nước ngoài đầu tiên có đĩa đơn No.1 trên bảng xếp hạng uy tín này. Và đĩa đơn thứ 23, "Dōshite Kimi o Suki ni Natte Shimattandarō?" (Why did I fall i love with you) giúp TVXQ lập kỉ lục mới, trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên có 3 đĩa đơn đứng đầu bảng xếp hạng. Năm 2010, sau đĩa đơn thứ 29, "Break Out!", TVXQ trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên có 7 đĩa đơn đạt ngôi vị quán quân trên Oricon và cũng là nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên tiêu thụ được hơn 200 nghìn bản trong lịch sử J-pop, cũng phá kỷ lục của Elton John. Đầu năm 2010, nhóm tung ra album BEST SELECTION 2010 ở Nhật và đạt được kỉ lục mới với hơn 500.000 bản tiêu thụ được và giành được đồng thời 2 giải bạch kim.
Dong Bang Shin Ki 621826 Dong Bang Shin Ki 621826 Dong Bang Shin Ki 621826
Quá trình hoạt động
2003–2005: Ra mắt và phát triển
Trước khi ra mắt, nhóm đã được cung cấp ba cái tên: O Jang Yukbu (오장육부 Lục phủ Ngũ tạng), Jeonseoleul Meokgo Saneun Gorae (전설을 먹고 사는 고래 Tạm dịch: Con cá voi ăn những huyền thoại), và Dong Bang Bul Pae (동방불패: Đông Phương Bất Bại). Họ đã quyết định là Dong Bang Bul Pae, nhưng sau đó lại được đổi thành Dong Bang Shin Ki (Đông Phương Thần Khởi) .
Dong Bang Shin Ki 137314 Dong Bang Shin Ki 137314 Dong Bang Shin Ki 137314

TVXQ lần đầu ra mắt khán giả Hàn Quốc vào ngày 26 tháng 12 năm 2003 trong một buổi biểu diễn có mặt cả BoA và Britney Spears, với ca khúc "Hug" và "O holy night" (hát theo phong cách acapella cùng với BoA. Đĩa đơn đầu tiên "Hug", phát hành vào tháng 1 năm 2004, đứng thứ 4 trên bảng xếp hạng hàng tháng và bán được 169,532 bản (năm 2004) và đứng thứ 14 trong bảng xếp hạng đĩa bán chạy nhất năm 2004. Đĩa đơn thứ 2 mang tên "The Way U are" phát hành vào tháng 7 năm 2004, đạt vị trí thứ 2 trong bảng xếp hạng và đứng thứ 9 trong những đĩa đơn bán chạy nhất năm với 214.069 bản (năm 2004). Sau đó TVXQ tiếp tục cho ra mắt album đầu tiên của mình "Tri-angle" vào tháng tháng 10 năm 2004. Album đã chiếm vị trí thứ nhất trong bảng xếp hạng, tiêu thụ được 242580 bản (chỉ trong năm 2004) và đứng thứ 8 trong những đĩa nhạc bán chạy nhất năm 2004 .
Dong Bang Shin Ki 136158 Dong Bang Shin Ki 136158 Dong Bang Shin Ki 136158 Dong Bang Shin Ki 136158 Dong Bang Shin Ki 136158 Dong Bang Shin Ki 136158 Dong Bang Shin Ki 136158
Ngày 27 tháng 4 năm 2005, TVXQ ra mắt tại Nhật Bản với sự quản lý của Rhythm Zone (công ty con của Avex). Đĩa đơn tiếng Nhật đầu tiên được phát hành là "Stay with Me Tonight" . Họ lại tiếp tục phát hành ca khúc tiếng Nhật thứ hai, "Somebody to Love" trước khi trở về Hàn Quốc cho ra mắt album tiếng Hàn thứ hai, "Rising Sun". "Rising Sun" sau khi ra đời đã chiếm vị trí số 1 trên bảng xếp hạng với 222,472 bản bán được chỉ trong năm 2005 và đứng ở vị trí thứ 4 trong bảng xếp hạng cuối năm. Kết thúc năm 2005, TVXQ cho ra mắt đĩa đơn thứ ba " My destiny" tại Nhật. Ca khúc "Show Me Your Love" thu âm cùng Super Junior tại Hàn Quốc đã tiêu thụ được 49.945 bản và đứng thứ 35 trong những đĩa đơn bán chạy nhất năm 2005. Sau đó, TVXQ nhận giải thưởng "Video âm nhạc hay nhất" cho "Rising Sun" và giải "Khán giả bình chọn" tại Liên hoan Mnet KM Music Video năm 2005.
Dong Bang Shin Ki 642855 Dong Bang Shin Ki 642855 Dong Bang Shin Ki 642855

2006-2007: Tấn công thị trường châu Á
TVXQ đã bắt đầu năm 2006 với chuyến lưu diễn quốc tế đầu tiên trên toàn châu Á (The 1st Asia Tour) - "Rising Sun". Ngoài Hàn Quốc, họ còn diễn tại Trung Quốc, Thái Lan, và Malaysia và trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên tổ chức biểu diễn hoà nhạc tại Malaysia . Trong tháng ba, nhóm phát hành đĩa đơn tiếng Nhật thứ tư, "Asuwa kuru kara" (明日は来るから: Because Tomorrow Will Come) và album tiếng Nhật đầu tiên "Heart, Mind and Soul". Album đứng thứ 25 trên bảng xếp hạng tuần Oricon với 9.554 bản được tiêu thụ. Đĩa đơn tiếng Nhật thứ 5, "Rising Sun/Heart, Mind and Soul" được phát hành một tháng sau đó và chiếm vị trí thứ 22 trên bảng xếp hạng Oricon. Để quảng bá cho album, họ tổ chức lưu diễn lần đầu tiên tại Nhật, 1st Live Tour 2006: Heart, Mind and Soul từ tháng 5 đến tháng 6. Sau đó, TVXQ phát hành thêm hai đĩa đơn tiếng Nhật "Begin" và "Sky". Cả hai ca khúc đều đứng ở vị trí thứ 6 và là những đĩa đơn đầu tiên của nhóm vào được Top 10 bảng xếp hạng Oricon Trong mùa hè, TVXQ biểu diễn tại hoà nhạc thường niên của Avex, A-Nation.

TVXQ trở lại Hàn Quốc với album thứ 3 "O"-Jung.Ban.Hap. ("O"-正.反.合) vào tháng 9 năm 2006. Cũng giống như các album tiếng Hàn trước đó, "O"-Jung.Ban.Hap. chiếm vị trí thứ nhất tại các bảng xếp hạng với tổng số 349,317 bản được tiêu thụ trong năm 2006 và đã trở thành đĩa nhạc bán chạy nhất trong năm. Hai tháng sau, nhóm phát hành đĩa đơn thứ 8, "Miss you/" O "- Sei-Han-Go" chiếm vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng ngày của Oricon. Đây là đĩa đơn đầu tiên của nhóm vào được Top 5. Tại Liên hoan MKMF Music năm 2006, TVXQ đoạt được bốn giải thưởng là "Nghệ sĩ xuất sắc nhất của năm", "Nhóm nhạc xuất sắc nhất", "Mnet.com" và "Giải thưởng Mnet Plus Mobile do khán giả bình chọn". Tại lễ trao giải Liên hoan âm nhạc Seoul thứ 16, TVXQ đã giành được ba giải thưởng, bao gồm cả giải "Daesang". Nhóm cũng đạt được giải "Daesang" tại giải Đĩa vàng 2006 cùng một giải "Bonsang". Tại lễ trao giải SBS Gayo 2006, TVXQ lại đoạt thêm giải "Daesang" và "Bonsang".
Dong Bang Shin Ki 142127 Dong Bang Shin Ki 142127 Dong Bang Shin Ki 142127 Dong Bang Shin Ki 142127 Dong Bang Shin Ki 142127 Dong Bang Shin Ki 142127 Dong Bang Shin Ki 142127 Dong Bang Shin Ki 142127 Dong Bang Shin Ki 142127
TVXQ đã bắt đầu năm 2007 với một đĩa đơn tiếng Nhật mới, "Step By Step", phát hành sau chuyến lưu diễn toàn Châu Á thứ hai (The 2nd Asia Tour "O"). Nhóm đã diễn tại Seoul, Đài Bắc, Bangkok, Kuala Lumpur, Thượng Hải và Bắc Kinh. Trong tháng ba, nhóm phát hành đĩa đơn tiếng Nhật thứ mười "Choosey Lover" và album tiếng Nhật thứ hai "Five in the Black". Cả hai đều nằm trong Top 10 của Oricon với vị trí thứ 9 và 10. Trong tháng 5, nhóm đã tới tham dự giải thưởng âm nhạc MTV Video Music Nhật Bản và đoạt giải "Best Buzz Asia in Korea" cho album "O"-Jung.Ban.Hap. Từ tháng 6 đến tháng 12 năm 2007, nhóm phát hành một chuỗi năm đĩa đơn: "Lovin' You", "Summer: Summer Dream/Song for You/Love in the Ice", "Shine/Ride On", "Forever Love" và "Together". "Summer: Summer Dream/Song for You/Love in the Ice" đứng ở vị trí thứ hai trên Oricon và cũng là thành tích cao nhất của một nhóm nhạc nước ngoài đạt được vào thời điểm đó. TVXQ cũng đã hợp tác với ca sĩ Nhật Bản Koda Kumi cho đĩa đơn thứ 38 của cô, "Last Angel", được sử dụng làm nhạc nền cho bộ phim hành động Resident Evil: Extinction.

[size=24] 2008 đến 2009: Thành công về thương mại

TVXQ phát hành đĩa đơn tiếng Nhật thứ 16 "Purple Line" vào ngày 16/01/2008 và trở thành nhóm nhạc nước ngoài đầu tiên có đĩa đơn xếp thứ nhất trên bảng xếp hạng tuần Oricon. Sau đó, họ phát hành album tiếng Nhật thứ ba "T". "T" đã chiếm vị trí thứ 4 trên Oricon tuần. TVXQ công bố dự án "Trick" với kế hoạch là 5 đĩa đơn sẽ được phát hành trong vòng 6 tuần, từ tháng 2 đến tháng 3 phát hành các đĩa đơn hát riêng của từng thành viên.

Sau đó, họ đã tiếp tục cho ra mắt đĩa đơn thứ 23, "Beautiful You/Sennen Koi Uta" trong tháng 4 và trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên có 2 đĩa đơn No.1 trên Oricon tuần sau 24 năm. Họ trở lại Hàn Quốc để tham gia Dream Concert 2008 tại Sân vận động Olympic, Seoul vào tháng 6. Ngày 12 tháng 6, họ khép lại chuyến lưu diễn châu Á lần thứ hai - 2nd Asia tour concert "O"- với buổi biểu diễn tại Bắc Kinh, mà đã bắt đầu vào ngày 23 tháng 2 năm 2007 tại Seoul. TVXQ trở lại Nhật Bản và phát hành đĩa đơn thứ 24 "Doushite Kimi wo Suki ni Natte Shimattandarou?" và lại trở thành nghệ sĩ nước ngoài duy nhất có 3 đĩa đơn No.1 trên bảng xếp hạng Oricon tuần. Sau đó, họ đã biểu diễn tại lễ kỉ niệm 20 năm của Avex và A-Nation 2008Trong tháng 8, TVXQ trở lại Hàn Quốc một lần nữa để tham gia vào SMTown Live 08 cùng với các nghệ sĩ trực thuộc SM khác như: BoA, Cheon Sang Ji Hee, Zhang Liyin, Girls' Generation, SHINee và Super Junior.

Album thứ 4 của nhóm tại Hàn Quốc, "Mirotic" đã bị phát hành muộn vào 24/09/2008 (theo đúng lịch là 22/09 nhưng do có số lượng lớn các đơn đặt hàng nên đã bị xuống 2 ngày). Giống như những album tiếng Hàn trước, Mirotic khởi đầu ở vị trí số 1 tại các bảng xếp hạng với 307.974 bản bán được (chỉ sau 3 ngày ra mắt, Mirotic đã trở thành album bán chạy nhất năm 2008 tại Hàn Quốc). Trong đầu tháng 1 năm 2009, album đã bán được thêm 194.863 bản, và tổng số album đã tiêu thụ được 502.837 bản, trở thành album đầu tiên trong 6 năm qua tại Hàn Quốc vượt ngưỡng 500.000 bản. Trong tháng 10, TVXQ phát hành đĩa đơn "Jumon: Mirotic", một phiên bản của Mirotic tại Nhật và không ngoài dự đoán, ca khúc này đã xếp thứ nhất trên bảng xếp hạng tuần Oricon. TVXQ tham dự Liên hoan Âm nhạc Kouhaku Uta Gassen được tổ chức thường niên vào dịp cuối năm. Đây là buổi biểu diễn âm nhạc có tỉ lệ người xem cao kỉ lục tại Nhật Bản, và TVXQ là nhóm nhạc Hàn Quốc đầu tiên tham gia sự kiện đặc biệt này.

Mở màn năm 2009 với đĩa đơn tiếng Nhật thứ 25, "Bolero / Kiss baby Sky / Wasurenaide" phát hành vào tháng 1 năm 2009, chiếm vị trí số 1 bảng xếp hạng tuần Oricon. Đĩa đơn giúp cho họ trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên và duy nhất có đến 5 ca khúc No.1 trên Oricon. Trong tháng 3, TVXQ phát hành đĩa đơn thứ 26 "Survivor", theo sau đó album tiếng Nhật thứ 4, "The Secret Code" chiếm vị trí thứ 2 còn "Survivor" chiếm vị trí 3 trên Oricon và kết thúc chuỗi đĩa đơn No.1 liên tiếp của họ.

Ngày 22 tháng 4 năm 2009, TVXQ phát hành đĩa đơn thứ 27 "Share the World/We Are!". Đĩa đơn này đứng thứ nhất trên Oricon tuần, đồng thời "We are" trở thành nhạc phim chính thức cho bộ phim hoạt hình One Piece của Nhật Bản. Đĩa đơn thứ 28, "Stand by U", phát hành ngày 1 tháng 7, 2009 và xếp thứ #2 trên bảng xếp hạng.

TVXQ đã tiếp tục với chuyến lưu diễn Châu Á lần thứ 3 3rd Asia tour concert Mirotic vào ngày 20 tháng 2 năm 2009 tại sân vận động trong nhà Seoul Olympic và kết thúc ngày 22 tháng 2 năm 2009, TVXQ tổ chức diễn tại nhiều nơi khác như Nam Kinh, Gwangju, Thái Lan... Và nhóm đã trở lại Nhật Bản để bắt đầu chuyến diễn vòng quanh nước Nhật bắt đầu từ tháng 4.

Tháng 7 năm 2009, TVXQ trở thành nhóm nhạc đầu tiên của Hàn Quốc tổ chức liveshow tại Tokyo Dome của Nhật Bản.[56]. Đây là tour diễn qua 11 thành phố lớn của Nhật Bản với hơn 20 đêm diễn phục vụ hơn 500000 lượt Fan (trong đó riêng 2 đêm ở Tokio Dome đã đón khoảng 110 000 người hâm mộ).

Vừa qua, ngày 22 tháng 8, vượt qua tất cả các tên tuổi khác như Super Junior, Bigbang... TVXQ đã giành được giải thưởng "Nhóm nhạc nổi tiếng nhất Châu Á" với 48% lượng bình chọn tại Channel V Music Video Awards 2009 của Thái Lan. Hơn thế nữa, tại Nhật Bản họ đã giành được một đĩa bạch kim cho album "The Secret Code", và hai đĩa vàng cho chuyến lưu diễn "T" và "Heart, Mind and Soul".

Ngày 30 tháng 9, hai thành viên Hero Jaejoong và Micky Yoochun đã phát hành đĩa đơn thứ 28, "Colors - Melody and Hamony/Shelter", bán được hơn 104.000 bản ngay trong ngày đầu phát hành và một lần nữa dành được vị trí No.1 bảng xếp hạng Oricon tuần với hơn 149.000 bản được tiêu thụ.

Bên cạnh đó, vào ngày 8 tháng 10 năm 2009 trên bảng xếp hạng Oricon tuần dành cho DVD, 4th Secret Code tour - Final in Tokyo Dome đã chiếm ngôi đầu bảng với hơn 171.000 bản được tiêu thụ. Đây là thành tích mà trong vòng hơn 20 năm qua chưa một nghệ sỹ nước ngoài nào làm được tại Nhật Bản.

Năm 2009 là năm cực kỳ thành công về doanh thu của nhóm. Mặc dù vướng vào vụ kiện từ cuối tháng 7, không có nhiều hoạt động vào cuối năm 2009 nhưng tính riêng doang thu ở Nhật nhóm đã kiếm được khoảng 76 triệu USD (đứng thứ 3 về doanh thu chỉ xếp sau hai ban nhạc hàng đầu của Nhật là Arashi và Exile). Còn nếu tính cả thị trường Châu Á thì nhóm đã mang về cho SM khoảng gần 110 triệu USD và là nghệ sỹ Hàn Quốc có doanh thu cao nhất năm 2009 (đứng thứ hai là Bi-Rain khoảng 57 triệu USD, đứng thứ ba là Big Bang khoảng gần 20 triệu USD).


Năm 2010: Thành công rực rỡ ở Nhật Bản.
Đĩa đơn thứ 29 của TVXQ, "Break Out!", chiếm ngôi vị quán quân trên Oricon với 256,000 bản bán được ngay trong tuần đầu tiên, phá vỡ kỉ lục cuả Elton John là nghệ sĩ nước ngoài có lượng tiêu thụ cao nhất trong 12 năm 4 tháng.[59] Họ cũng lập kỉ lục, trở thành nghệ sĩ nước ngoài có lượng đĩa bán được trong tuần đầu tiên cao nhất tại Nhật.
Tháng 2 năm 2010, TVXQ đã được mời thể hiện ca khúc "With All My Heart -君が踊る、夏-", được sử dụng làm nhạc phim "君が踊る、夏 / Kimi ga Odoru, Natsu". Bộ phim sẽ ra mắt vào tháng 9 năm 2010.

Ngày 17 tháng 2 năm 2010, TVXQ phát hành album tiếng Nhật thứ 5, BEST SELECTION 2010, bao gồm các ca khúc xuất sắc nhất của nhóm trong thời gian hoạt động ở Nhật. Album đã giành vị trí quán quân trên bảng xếp hạng album tuần Oricon với hơn 500 000 bản được tiêu thụ, đồng thời phá vỡ kỉ lục của Jon Bovi sau 12 năm 9 tháng. Đây là một thành công khẳng định mức độ nổi tiếng của nhóm tại Nhật Bản, thị trường âm nhạc lớn thứ 2 thế giới (sau Mĩ) và hơn nữa, từ trước đến nay cũng rất ít nghệ sĩ nước ngoài có được lượng tiêu thụ cao ở thị trường này.

Ngày 24 tháng 3 năm 2010, TVXQ chính thức phát hành đĩa đơn tiếng Nhật mới mang tên "Toki Wo Tomete / Checkmate". Với gần 125000 bản bán được trong ngày đầu tiên, đĩa đơn đã giành vị trí No.1 trên bảng xếp hạng Oricon ngày. Cùng với đó, album "TVXQ NonStop-MIX vol.2", một album "non-stop mix" gồm 22 bài hát nổi tiếng của nhóm, đã chiếm vị trí số 2 trên bảng xếp hạng cùng ngày. "Toki wo Tomete" cũng đứng thứ 2 trên bảng xếp hạng Oricon tháng 3 với 209063 bản được tiêu thụ.

Vào ngày 3 tháng 4 năm 2010, Avex đã tuyên bố tạm ngừng hoạt động của TVXQ tại Nhật Bản dưới cái tên Tohoshinki và sẽ giúp đỡ mỗi thành viên đi theo con đường solo.
Năm 2010, chỉ trong 3 tháng đầu năm, với việc phát hành 2 đĩa đơn vào ngày 27 tháng 1 và 24 tháng 3, cùng với album Best Selection 2010 vào 17 tháng 2, album "TVXQ NonStop-MIX vol.2" vào 24 tháng 3 và DVD The One vào 17 tháng 3, nhóm đã lập thêm một kỷ lục mới khi tổng lượng đĩa bán ra đã xấp xỉ 1 300 000 bản (chỉ tính riêng trên bảng xếp hạng ORICON tại Nhật).Tháng 3 vừa qua, Hiệp hội ghi âm Nhật Bản đã chính thức trao tặng cho DBSK danh hiệu đĩa bạch kim cho hai đĩa đơn BREAK OUT và TOKI WO TOMETE, còn album BEST SELECTTION 2010 với việc tiêu thụ hơn 510 000 trong vòng 1 tháng đã được trao tặng danh hiệu Đĩa đôi bạch kim.


Phong cách âm nhạc
Phong cách của TVXQ là sự hoà trộn của nhiều thể loại âm nhạc như pop, R&B, dance và cả a cappella.
Nhạc và lời ca khúc
Phần lớn các ca khúc của TVXQ đều được sáng tác bởi đội ngũ nhân viên. Đôi khi các thành viên trong nhóm cũng tự sáng tác. Trong album tiếng Hàn thứ 2, Rising Sun, Yoochun, Yunho và Junsu viết lời rap cho "Love After Love"; Yoochun cũng đồng thời soạn nhạc cho "Like weather...". Trong "O"-Jung.Ban.Hap., album tiếng Hàn thứ 3, Yoochun viết lời rap tiếng Anh cho "Phantom Hwanyeong" và Junsu viết nhạc và lời "Nae Gyeote Sumsiur Su Ittdamyeon (White Lie)" (네 곁에 숨쉴 수 있다면). Album tiếng Hàn thứ 4, Mirotic, bao gồm đáng kể sáng tác của các thành viên: Jaejoong sáng tác "Saranga Uljima" (Don't Cry My Lover) (사랑아 울지마), Changmin viết lời tiếng Hàn cho "Love in the Ice", Yoochun sáng tác "Sarang Annyeong Sarang" (Love Bye Love) (사랑 안녕 사랑), và Junsu viết lời "Noeur.. Baraboda" (Picture of You) (노을..바라보다).

Trong album tiếng Nhật thứ 3, T, Yoochun viết lời "Kiss Shita Mama, Sayonara" (Nhật: Kissしたまま、さよなら, lit. As We Kiss, Goodbye?) và cùng soạn nhạc với Jaejoong. Yoochun cũng sáng tác ca khúc solo của mình, "My Girlfriend" trong đĩa đơn thứ 2 của dự án TRICK, Runaway/My Girlfriend. Junsu soạn nhạc ca khúc solo "Rainy Night", cho đĩa đơn thứ 3 của dự án TRICK.

Jaejoong viết lời và đồng soạn nhạc "Wasurenaide" (Nhật: 忘れないで, lit. Don't Forget?) còn Micky sáng tác "Kiss the Baby Sky", cả hai đều là ca khúc hạng A trong đĩa đơn tiếng Nhật thứ 25 của nhóm, "Bolero/Kiss the Baby Sky/Wasurenaide".Những ca khúc này sau đó nằm trong album The Secret Code, cùng với "9095", ca khúc do Jaejoong sáng tác.

Jaejoong sáng tác và Yoochun viết rap cho ca khúc "Color - Melody and Harmony", ca khúc chủ đề của lễ kỉ niệm 35 năm mèo Kitty. Ca khúc này được 2 thành viên song ca và đưa vào đĩa đơn "Color - Melody and Harmony". Ca khúc "Shelter" trong đĩa đơn này cũng là một sáng tác chung của Jaejoong, Yoochun và Junsu. Yunho sáng tác và đơn ca "Checkmate" được phát hành trong đĩa đơn mới "Toki wo Tomete / Checkmate" của nhóm.

Tranh cãi
Ca từ ca khúc Mirotic
Tháng 11 năm 2008, Uỷ ban bảo trợ Thanh thiếu niên Hàn Quốc đã xếp Mirotic vào văn hoá phẩm không phù hợp với thanh thiếu niên và tuyên bố rằng lời bài hát mang tính khiêu khích và quá gợi cảm. Theo đó, album bị dán nhãn không phù hợp với người dưới 19 tuổi và không được phát sóng bất kì buổi biểu diễn nào sau 10 giờ đêm. Phản ứng lại, SM Entertainment đồng ý phát hành một phiên bản sạch, nhưng lại có lệnh của toà án để vô hiệu hoá quyết định của uỷ ban

“ Chúng tôi sẽ làm một phiên bản trong sạch phù hợp với quyết định của uỷ ban, nhưng vì chúng tôi không thể đồng ý hoàn toàn, phía chúng tôi sẽ tổ chức đàm phán tạm thời với toá án để vô hiệu lực chỉ thị này. ”

Sau khi Uỷ ban bảo trợ Thanh thiếu niên tuyên bố đang xem xét lệnh cấm album, SM Entertainment phát biểu,

“ Mặc dù trước khi có quyết định phản đối Mirotic, chúng tôi đã công khai thương lượng và cố gắng giải thích ý nghĩa thực của ca từ, nhưng kết quả không như mong đợi và chúng tôi đang rất bối rối vào thời điểm này. Lời của Jumun-Mirotic' sẽ khác hoàn toàn và tránh xa ý nghĩa khiêu gợi.[fn 1] ”

TVXQ trình diễn phiên bản sạch tại Gold Disk Award lần thứ 23. Ca từ đã được thay đổi từ "I got you" (Tôi đã nắm được em) thành "I chose you" (Tôi đã chọn em) và "I got you under my skin" (Tôi đã nắm được em dưới da thịt tôi) thành "I got you under my sky" (Tôi đã nắm được em dưới bầu trời của tôi).

Tháng 3 năm 2009, Toà án dân sự Seoul ra phán quyết ủng hộ SM Entertainment:

“ Chúng tôi hiểu những điều lời bài hát đề cập tới, bao gồm "You want me, you give yourself up to me, you’re crazy about me" (Em thèm khát tôi, em hiến dâng cho tôi, em phát điên lên vì tôi) và "I got you under my skin" có thể hàm ý tới sự quan hệ tình dục, nhưng chúng không miêu tả quá sỗ sàng hành động hay cảm giác đến mức mà có thể kích thích dục vọng ở thanh thiếu niên... Mặc dù chúng tôi hiểu giới trẻ nhạy cảm với sự kích thích và ít khả năng kiềm chế nhưng lời bài hát không khuyến khích họ quan hệ tình dục hay miêu tả phụ nữ như đối tượng tình dục. ”

Ngày 9 tháng 4 năm 2009, Uỷ ban bảo trợ thanh thiếu niên tuyên bố họ sẽ lưu ý đến phán quyết của toà án sau khi có một cuộc hội ý và làm rõ câu "I got you under my skin", là không thích hợp cho trẻ em.
Dong Bang Shin Ki 898475

Vụ kiện SM Entertainment
Cuối tháng 7 năm 2009, ba trong số năm thành viên—Hero Jaejoong, Micky Yoochun, và Xiah Junsu— cùng kí vào đơn kiện gửi lên Toà án trung tâm quận Seoul để phá vỡ hiệu lực của bản hợp đồng giữa họ với SM Entertainment. Qua luật sư, các thành viên chỉ ra rằng, hợp đồng 13 năm thực sự quá dài và tiền thù lao nhóm được hưởng quá ít so với công sức họ bỏ ra. Đó không khác gì một bản hợp đồng nô lệ. Không chỉ TVXQ mà rất nhiều các nghệ sĩ khác của SM phải kí những bản hợp đồng như vậy. Tuy nhiên, nếu thua kiện, theo hợp đồng, đơn phương phá bỏ hợp đồng trước thời hạn, nhóm sẽ phải đền bù gấp 3 lần số lợi nhuận công ty dự kiến thu được từ nhóm cho phần còn lại của hợp đồng, ước tính khoảng hơn 100 tỉ won (tương đương 100 triệu đô la Mỹ). Vụ kiện khiến cổ phiếu của SM Entertainment giảm xuống 30% trên sàn KOSPI. Dong Bang Shin Ki 142127

Tại phiên tòa ngày 21 tháng 8 năm 2009, fanclub chính thức của TVXQ, Cassiopeia đã gửi đến tòa án hơn 120.000 chữ kí ủng hộ 3 thành viên, đồng thời đâm đơn kiện SM với lí do họ đã "đơn phương hoãn 'SM Town Live 09' mà không thèm suy xét và lừa tất cả các khách hàng, những người đã mua vé".
Dong Bang Shin Ki 983976

Toà án Trung tâm quận Seoul đưa ra phán quyết cuối cùng nghiêng về phía Jaejoong, Junsu và Yoochun. Toà cũng chỉ ra rằng bản hợp đồng thiếu công bằng và các thành viên không được hưởng lợi nhuận xứng đáng với công sức bỏ ra. Trong quá trình vụ việc còn diễn biến phức tạp, 3 thành viên đã được chấp nhận tạm hoãn hợp đồng với SM và tách ra hoạt động riêng lẻ.
Các hoạt động khác
Bên cạnh việc ca hát, TVXQ cũng tham gia nhiều hoạt động khác trong lĩnh vực điện ảnh, truyền hình, quảng cáo và các hoạt động xã hội
Diễn xuất
Banjun Theatre
Banjun Theatre là một show truyền hình của SBS. Trong năm 2005 và 2006, các thành viên của TVXQ tham gia diễn xuất trong một số tập của Banjun như: First Love (Parts 1 and 2), The Masked Fencer, The King's Men, Yunho's Tokyo Holiday, Dangerous Love, Finding Lost Time, Uninvited Guest, The Most Unforgettable Girl in My Life với mục đích cho khán giả thấy được ngoài khả năng ca hát, các thành viên trong nhóm còn có cả khả năng diễn xuất.

Vacation
Vacation là một bộ phim truyền hình bao gồm 4 phần và một phần đặc biệt. Tuy nhiên, Vacation không được trình chiếu trên TV mà chỉ xuất hiện tại rạp chiếu (từ ngày 7 tháng 7 đến ngày 8 tháng 8 năm 2006 tại Đại học Yonsei). Sau đó, bộ phim này được phát hành dưới dạng DVD, tặng kèm theo album thứ 3 của DBSK, "O"-Jung.Ban.Hap. Nhạc phim bao gồm hai bài hát và các bản nhạc âm cũng do chính TVXQ thể hiện. #1 Dong Bang Shin Ki 275636 Dong Bang Shin Ki 33758 Dong Bang Shin Ki 232693 Dong Bang Shin Ki 20539

Dating on Earth
Là một bộ phim với sự tham gia diễn xuất của cả 5 thành viên. Tuy nhiên, bộ phim chủ yếu xoay quanh hai nhân vật chính do Hero Jae Joong và Micky Yoochun đảm nhận. Ba thành viên còn lại chỉ đảm nhận những tuyến nhân vật phụ.

Heaven's post man
Là một bộ phim hợp tác giữa Hàn Quốc và Nhật Bản với sự tham gia của một thành viên trong nhóm là Kim Jae Joong và diễn viên Han Hyo Joo. Phiên bản điện ảnh được công chiếu vào ngày 11 tháng 11 năm 2009 đã dành được nhiều lời khen ngợi từ các nhà phê bình. Bản truyền hình sẽ được phát sóng trong năm 2010. Dong Bang Shin Ki 710229 Dong Bang Shin Ki 488699

Heading to the ground
Năm 2009, nhóm trưởng U-know Yunho chính thức bắt đầu nghiệp diễn viên dưới cái tên thật Jung Yunho trong bộ phim truyền hình Heading to the ground. Phim được phát sóng từ ngày 9 tháng 9 năm 2009 trên MBC. Dong Bang Shin Ki 876380

Paradise Meadow
Bộ phim là sự hợp tác giữa Samhwa Networks và SM Entertainment Joint, có sự góp mặt của thành viên nhỏ tuổi nhất Max Changmin với vai trò là vai chính (cùng với Lee Yeon Hee và Joo Sangwook) cho phim này. Paradise Meadow là một thể loại kịch melo lãng mạn. Bộ phim được khởi quay vào tháng 11 năm 2009 tại đảo Jeju (Hàn Quốc). Dong Bang Shin Ki 164436 Dong Bang Shin Ki 408560 Dong Bang Shin Ki 70341 Dong Bang Shin Ki 8166 Dong Bang Shin Ki 275636 Dong Bang Shin Ki 813377

Sunaoni Narenakute (Hard to say I love you)
Đây là bộ phim truyền hình của nhà biên kịch nổi tiếng 48 tuổi Eriko Kitagawa. Nội dung của “Sunaoni Narenakute” nói về một nhóm bạn có 5 thành viên quen nhau qua trang mạng xã hội Twitter. Cả 5 người đều đã phải vượt qua nhiều hiểu lầm để có thể trở thành những người bạn chân chính của nhau. Bộ phim có sự tham gia của thành viên Hero Jaejoong. Nhân vật của Hero tên thật là Park Sung-soo, đến Nhật cách đây 5 năm cùng em gái. Trên Twitter, Park Sung Soo nói dối mình là bác sĩ nhưng thực ra anh chàng chỉ là một nhân viên bán thiết bị y tế tại một công ty đang gặp rắc rối về tài chính. Bộ phim bắt đầu phát sóng tập đầu tiên vào ngày 15/04 tại Nhật Bản. Theo Starnews, tập đầu tiên của Sunao Ni Narenakute đã đạt đến vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng rating với tỷ xuất 11,9%. Jaejoong cũng nhận được rất nhiều lời khen về diễn xuất cho bộ phim mới. Dù xuất hiện trên phim với những ngôi sao nổi tiếng như Ueno Juri và Eita, nhưng anh cũng không hề kém cạnh khi thể hiện kỹ năng thông thạo tiếng Nhật và diễn xuất tự nhiên của mình. Dong Bang Shin Ki 363160

Các hoạt động xã hội
Năm 2005, Hội đồng Du lịch Los Angeles phát động chiến dịch "See My L.A.". TVXQ, cùng với BoA, trở thành phát ngôn viên cho chiến dịch.[100] Từ tháng 4 năm 2007, TVXQ tổ chức chương trình radio hàng tuần, TVXQ Bigeastation trên Japan FM Network.

Ngày 28 tháng 3 năm 2008, TVXQ được Universal Studios Nhật Bản chọn làm đại sứ thiện chí cho châu Á để quảng bá sức ảnh hưởng của hãng
. Dong Bang Shin Ki 579850 Dong Bang Shin Ki 579850 Dong Bang Shin Ki 579850

Đây là danh sách các giải thưởng đoạt được của ban nhạc Hàn Quốc TVXQ.
Dong Bang Shin Ki 568503 Dong Bang Shin Ki 568503 Dong Bang Shin Ki 568503 Dong Bang Shin Ki 568503 Dong Bang Shin Ki 568503 Dong Bang Shin Ki 568503 Dong Bang Shin Ki 568503 Dong Bang Shin Ki 568503
Giải thưởng
Năm Giải thưởng
2004 SBS Gayo Awards (March 28): Popular Song First Debut (Hug)
Mnet KM Music Video Festival (December): Best Music Video Award for New Group (Hug)
KBS Popular Music Award: Best New Artist
MBC Top 10 Music Festival: Best New Artist
Go News Netizen YunAae Daesang: Best Group Award
Go News Netizen YunAae Daesang: Music Video Award
Go News Netizen YunAae Daesang: CF Model Award
Go News Netizen YunAae Daesang: Asia Star Award

2005 Mnet KM Music Video Festival: Best Music Video (Rising Sun)
Mnet KM Music Video Festival: People’s Choice Award
Mnet KM Music Video Festival: Artist of the Year

2006 Korean Chinese Custom Ceremony: China-Ten Most Popular Music Group
Korean Chinese Custom Ceremony: China-Ten Most Popular Song
Korean Chinese Custom Ceremony: China-Most Popular Advertisement Model
Korean Chinese Custom Ceremony: China-Ideal Man Category
Channel[V] Thailand Music Video Awards: Best Music Video (Rising Sun)
Channel[V] Thailand Music Video Awards: Best Asian Artist
Thailand Virgin Hitz Awards (October 28): Popular Vote Asia Artist
Mnet KM Music Festival (November 25): Best Group [1]
Mnet KM Music Festival (November 25): Artist of the Year
Mnet KM Music Festival (November 25): Mnet.com
Mnet KM Music Festival (November 25): Mnet Plus Mobile People's Choice Award
MTV 16th Music Seoul Festival (December 1): Daesang (Artist of The Year) [2]
MTV 16th Music Seoul Festival (December 1): Bonsang
MTV 16th Music Seoul Festival (December 1): Mobile Popular Vote
21st Golden Disk Awards (December 14): Disk Daesang (Artist of The Year) [3]
21st Golden Disk Awards (December 14): Disk Bonsang
SBS Gayo Awards (December 29): Daesang (Artist of The Year)
SBS Gayo Awards (December 29): Bonsang

2007 2007 Thailand SEED Awards (January 31): Best Asian Singer Award
MTV Video Music Awards Japan (May 26): Best Buzz Asia in Korea
14th Annual Korea Entertainment Masterpiece Award Ceremony (October 6): International Popularity Award
Best Hits 2007 Japan (November 26): Gold Artist Award
MTV Korea: President of the Republic of Korean Music
Asian MUSIC eXtreme Awards 2007: 2007 Best Asian DVD or DVD box for ALL ABOUT TVXQ season 2[4]
Asian MUSIC eXtreme Awards 2007: Most wanted Asian artist for a concert in France
Asian MUSIC eXtreme Awards 2007: Most wanted Asian artist for european CD/DVD releases

2008 MTV Video Music Awards Japan: Best Collaboration Video Award (LAST ANGEL by Koda Kumi feat. TVXQ)
Asia Song Festival 2008 (October 4): Asia's Top Singer Award [5].
15th Korea Entertainment Awards (November 13) : Most Popular Artist Award
Mnet KM Music Festival (November 15): Daesang: Album Of The Year (The 4th Album "MIROTIC")
Mnet KM Music Festival (November 15): Auction Best Style Award
Mnet KM Music Festival (November 15): Mobile Popularity Award
Mnet KM Music Festival (November 15): Auction Netizen's Choice Award
Mnet KM Music Festival (November 15): Overseas Viewer Award
Best Hits 2008 Japan (November 27): Gold Artist Award
2008 Golden Disk Awards (December 10): Disk Daesang (Artist of The Year)[6]
2008 Golden Disk Awards (December 10): Disk Bonsang[6]
2008 Golden Disk Awards (December 10): Disk Yepp Popularity Award[6]
16th Annual Korean Entertainment Awards (December 12): New Generation Daesang
Music Bank (Year-End Special): MVP Award
Melon Awards : Best Artist
Melon Awards : Music Video of The Year

2009 Korea Entertainment Producers Association (January 20): The Culture Sports Tourism Recognition Award.
18th Seoul Music Awards (February 12): Mobile Popularity Award
18th Seoul Music Awards (February 12): Bonsang
Thailand SEED Awards : Best Asia Artist of the Year for 주문 "MIROTIC"
MAMA: Best Asia Star
Best Hits Festival 2009 (Japan) : Golden Artist Award
Japan Record Awards - Best Song (Stand By U)
Melon Music Awards (December 16): 2009 Mania - Mirotic
Melon Music Awards (December 16): 2009 Star
Korea National Tourism Organization - Hallyu Tourism Lifetime Achievement Award
Admin
Admin
Không cần đi học
Không cần đi học

Tổng số bài gửi : 84
Join date : 14/05/2010

https://onlyfora14btx.forumvi.com

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết